EnglishVietnamese

KIẾN THỨC TỰ ĐỘNG HÓA

Triển khai hệ thống giao thông thông minh tại Việt Nam

 

Hình 1. Hệ thống kiểm soát giao thông trên tuyến cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình

1. Lộ trình ứng dụng ITS tại Việt Nam

Tính đến cuối năm 2012, Việt Nam có trên 256.684 Km đường, trong đó, đường quốc lộ là 17.228 Km, tỉnh lộ 23.520 Km, đường đô thị 8.492 Km, còn lại là các tuyến huyện lộ và xã lộ (tỷ lệ cao nhất). Chất lượng đường còn thấp, chủ yếu đường hẹp, đường hai làn xe. Giao thông trên các tuyến đường là giao thông hỗn hợp, với tỷ lệ xe máy cao (theo thống kê, đến hết năm 2009, cả nước có 24 triệu xe máy, gần 2 triệu ô tô). Tốc độ tăng trưởng phương tiện lớn. Ý thức người tham gia giao thông còn một số hạn chế nhất định. Nhiều vấn đề phát sinh cần phải giải quyết như tỷ lệ tai nạn giao thông còn cao, ùn tắc giao thông còn phổ biến tại các đô thị, ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng, hệ thống quản lý còn hạn chế, chất lượng và hiệu suất phục vụ còn thấp, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội, đòi hỏi phải tích cực phát triển, hoàn thiện hệ thống.

Đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông vận tải là một trong những ưu tiên hàng đầu mà Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) đang thực hiện. Theo quy hoạch Hệ thống giao thông đường bộ Việt Nam, việc nâng cấp, xây dựng và phát triển hệ thống đường quốc lộ được quan tâm và ưu tiên thực hiện. Trong quá trình đó, việc ứng dụng ITS cũng được chú trọng và khẩn trương tiến hành nhằm xây dựng hệ thống giao thông an toàn, bền vững.

Việt Nam đã có Lộ trình ứng dụng ITS, do Bộ GTVT ban hành, được chia làm 3 giai đoạn: giai đoạn đến năm 2015, giai đoạn từ 2015 đến 2020 và giai đoạn từ 2020 đến 2030. Mục tiêu của lộ trình này là: Tiêu chuẩn hoá ITS toàn quốc; Quy hoạch và xây dựng các trung tâm điều hành và kiểm soát giao thông tại 3 khu vực Bắc, Trung, Nam; và xây dựng hoàn thiện các ứng dụng, các hệ thống con ITS. Nội dung cụ thể của các giai đoạn được trình bày trong bảng 1.1.

Một số dự án về ITS đã và đang được triển khai tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng,…, ứng dụng ITS trên hệ thống đường cao tốc cũng đang được khẩn trương thực hiện. Bên cạnh đó một số hệ thống giám sát giao thông phục vụ công tác quản lý đã được đưa vào ứng dụng.

Như vậy, có thể thấy việc ứng dụng ITS tại Việt Nam đang có nhiều điều kiện thuận lợi liên quan đến hệ thống cơ sở hạ tầng, các chính sách, chiến lược và sự ưu tiên đầu tư phát triển. Tuy nhiên, quá trình này cũng còn nhiều vấn đề cần phải khắc phục, đòi hỏi Việt Nam phải tiếp tục nỗ lực và tăng cường hợp tác, trao đổi với các nước trên thế giới để hoàn thiện và đẩy nhanh tiến trình ứng dụng ITS.

Bảng 1.1: Lộ trình ứng dụng ITS tại Việt Nam

2. Hiện trạng ứng dụng ITS tại Việt Nam

2.1.Thực hiện các nghiên cứu về ITS

Việc nghiên cứu ITS đã được thực hiện trong một thời gian và đạt được những thành tựu nhất định, góp phần quan trọng vào quá trình triển khai thực hiện ITS. Các Viện nghiên cứu, trường đại học, các công ty lớn đều có những nghiên cứu về vấn đề này. Năm 1999, Viện Khoa học và Công nghệ GTVT đã thực hiện đề tài nghiên cứu cấp Bộ: “Nghiên cứu áp dụng giao thông trí tuệ trong GTVT” với mục tiêu nghiên cứu hệ thống ITS trên thế giới và khả năng ứng dụng tại Việt Nam, đề xuất những ứng dụng ban đầu; đến năm 2009 Viện tiếp tục thực hiện đề tài “Nghiên cứu ứng dụng ITS trong quản lý khai thác, điều hành giao thông và thu phí trên hệ thống đường ô tô cao tốc Việt Nam”. Trong Chương trình KH và CN trọng điểm cấp Nhà nước giai đoạn 2011-2015, một số đề tài cấp nhà nước liên quan đến ITS đã được thực hiện như đề tài “Xây dựng cấu trúc ITS và các quy chuẩn công nghệ thông tin, truyền thông, điều khiển áp dụng trong ITS tại Việt Nam” (2012-2013); và đề tài “Nghiên cứu thiết kế, chế tạo các thiết bị phương tiện và hệ thống tự động kiểm tra, giám sát, điều hành phục vụ cho an toàn giao thông đường bộ”. Ngoài ra, có thể kể đến một số nghiên cứu khác như “Nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ Tự động hóa” do trường Đại học GTVT Hà Nội thực hiện năm 2007-2010; và chuyên đề “Các yêu cầu về chất lượng dịch vụ trong mạng sử dụng ITS” của Học viện Bưu chính-Viễn thông và Viện Khoa học Kỹ thuật bưu điện. Đây là những nghiên cứu nền tảng, bước đầu trong lĩnh vực ITS tại Việt Nam.

Bên cạnh đó, những nghiên cứu của JICA (Nhật Bản) về lĩnh vực ITS có những đóng góp quan trọng trong quá trình nghiên cứu, ứng dụng ITS tại Việt Nam. Các nghiên cứu của JICA tập trung vào tình hình thực tế và nhu cầu ứng dụng ITS của Việt Nam, qua 3 giai đoạn nghiên cứu: Điều tra nhu cầu, đề xuất lộ trình triển khai và quy hoạch tổng thể; Hỗ trợ triển khai ITS và nghiên cứu tích hợp ITS trong các tuyến quốc lộ khu vực phía Bắc Việt Nam. Trong đó bao gồm các hỗ trợ về xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn trong lĩnh vực ITS.

2.2.Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn trong lĩnh vực ITS

Tại Việt Nam, hệ thống đường cao tốc đang được tập trung xây dựng và phát triển, yêu cầu các tuyến này phải trang bị hệ thống ITS, do đó Bộ GTVT xác định công tác xây dựng tiêu chuẩn ITS là “nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2013-2014” và giao nhiệm vụ xây dựng 8 tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia, trong đó 7 tiêu chuẩn dành cho đường cao tốc. Trong tương lai, việc xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn khác sẽ được chú trọng thực hiện, không chỉ trong lĩnh vực đường cao tốc mà cho toàn bộ hệ thống đường bộ.

Hình 2. Trung tâm điều hành giao thông tại Tokyo - Nhật Bản

2.3. Các dự án ứng dụng ITS trên hệ thống đường cao tốc

Việt Nam đã và đang thực hiện nhiều dự án ứng dụng ITS trên hệ thống đường cao tốc. Tiêu biểu là các hệ thống ITS trên tuyến Cầu Giẽ - Ninh Bình, Tp. Hồ Chí Minh - Trung Lương, sắp tới sẽ triển khai dự án ứng dụng ITS trên quốc lộ 3 mới (Hà Nội -Thái Nguyên), hệ thống đường cao tốc vành đai Hà Nội. Đây là những dự án đầu tiên về ITS trên hệ thống đường cao tốc, có vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng ITS sau này. Theo dự kiến, tất cả các tuyến cao tốc khi xây dựng đều phải trang bị hệ thống ITS. (h1)
Hệ thống quản lý giao thông thông minh tuyến cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình đã được đưa vào sử dụng vào đầu tháng 10/2013, trung tâm quản lý, điều hành tuyến đặt tại Vực Vòng, Duy Tiên, Hà Nam. Hệ thống này bao gồm: hệ thống trung tâm điều khiển giao thông, hệ thống thu phí (bao gồm cả thu phí điện tử) hoạt động theo cơ chế thu phí kín với 39 làn xe, hệ thống giám sát điều khiển giao thông với 56 camera kỹ thuật số có độ phân giải cao, hệ thống kiểm soát tải trọng xe sử dụng thiết bị cân động,…Việc khai thác, sử dụng các hệ thống này đã được một số hiệu quả nhất định.

Việc ứng dụng ITS tại dự án đường cao tốc Tp Hồ Chí Minh - Trung Lương cũng đang được triển khai thực hiện, tập trung xây dựng hệ thống quản lý ITS cho toàn tuyến làm cơ sở xây dựng trung tâm ITS khu vực miền Nam Việt Nam, kết nối với hệ thống điều hành ITS quốc gia. Dự án này triển khai các hệ thống quản lý, điều hành, giám sát giao thông và thu phí điện tử nhằm tăng cường an toàn và hiệu quả khai thác. Tuyến đường TP Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây cũng đang được triển khai lắp đặt thiết bị do nhà thầu ITOCHU - TOSHIBA thực hiện.

Sắp tới, dự án tích hợp ITS trên tuyến Quốc lộ 3 mới và các tuyến Quốc lộ phía Bắc Việt Nam sẽ được tiến hành. Với tổng nguồn vốn đầu tư dự kiến khoảng 2.045 tỷ đồng, từ nguồn vốn vay ODA của JICA Nhật Bản. Dự án sẽ triển khai ITS trên các tuyến bao gồm tuyến vành đai 3 Hà Nội (Mai Dịch - Thanh Trì), Láng - Hòa Lạc, Cầu Giẽ - Ninh Bình, Hà Nội - Bắc Ninh, Nội Bài - Bắc Ninh, Nội Bài - Lào Cai, Hà Nội - Hải Phòng , Hà Nội - Thái Nguyên nhằm tăng cường quản lý, điều hành hệ thống, tăng cường an toàn và tiện ích cho người sử dụng.

Hệ thống các trung tâm điều hành giao thông đường cao tốc đang chuẩn bị xây dựng tại ba khu vực Bắc - Trung - Nam, dự kiến đặt tại Bắc Ninh, Đà Nẵng và Tp. Hồ Chí Minh. Đây là 3 trung tâm có chức năng điều phối, giám sát, điều hành giao thông trên các tuyến cao tốc trong phạm vi quản lý. Dự án được thực hiện với sự hỗ trợ của JICA (Nhật Bản). (h2)

2.4. Một số dự án ứng dụng ITS tại các thành phố

Hiện nay, tại các đô thị lớn của Việt Nam (Hà Nội, Đà Nẵng, Tp Hồ Chí Minh), đã và đang triển khai xây dựng hệ thống giám sát, điều hành giao thông. Các dự án này sử dụng hệ thống camera giám sát, trung tâm điều khiển giao thông, hệ thống radio để thu thập thông tin, điều hành giao thông và cung cấp thông tin cho người sử dụng.

Tại Hà Nội, Trung tâm Điều khiển giao thông đã chính thức đưa vào hoạt động từ năm 2000 với hệ thống thiết bị của hãng SAGEM điều khiển đèn tín hiệu giao thông do Chính phủ Pháp tài trợ. Có thể nói đây là ứng dụng đầu tiên của công nghệ ITS trong khu vực đô thị ở Việt Nam. Đến nay, trung tâm này đã được nâng cấp nhiều lần và vẫn đang hoạt động hiệu quả, góp phần giám sát, điều hành giao thông toàn thành phố.

Đề án thí điểm xây dựng mô hình quản lý Đại lộ Thăng Long với sự hình thành của Trung tâm Quản lý đường cao tốc Hà Nội. Trung tâm này sẽ quản lý an toàn giao thông, tiếp cận xử lý tai nạn giao thông và các biện pháp phòng ngừa; quản lý hệ thống thông tin; thực hiện công tác bảo hành, sửa chữa… Trung tâm sẽ ứng dụng các công nghệ thông tin hiện đại trong quản lý như đếm, phân loại phương tiện giao thông tự động; hệ thống camera giám sát; hệ thống bảng thông báo điện tử; kiểm soát xe quá tải, quá khổ…

Dự án REMON được triển khai tại Hà Nội với mục tiêu theo dõi và xác định trực tuyến lưu lượng giao thông đồng thời tạo ra nguồn dữ liệu giao thông cho cả giai đoạn ngắn hạn và dài hạn. Dự án này sử dụng các phương tiện giao thông được giám sát (tốc độ và hướng chuyển động), định vị qua hệ thống GPS để thu thập các số liệu và phản ánh tình trạng dòng giao thông, phát hiện các vị trí ùn tắc qua đó cung cấp thông tin cho người sử dụng. Các thông tin thu thập phục vụ công tác quản lý, điều hành giao thông, đánh giá quy hoạch và các giải pháp tổ chức, điều khiển giao thông, xây dựng quy hoạch, chiến lược phát triển dài hạn để giải quyết các vấn đề giao thông.

Tại Đà Nẵng, Sở GTVT Đà Nẵng phối hợp với IBM xây dựng chương trình ITS cho toàn thành phố. Trung tâm Điều hành đèn tín hiệu giao thông và vận tải công cộng TP. Đà Nẵng tiến hành lắp đặt hệ thống camera giám sát giao thông, hỗ trợ giám sát, điều hành và giúp lực lượng công an giám sát các vi phạm và tiến tới thực hiện “xử phạt nguội”. Dự án xây dựng và nâng cấp hệ thống tín hiệu và điều khiển giao thông TP. Đà Nẵng, thực hiện từ năm 2004 đến năm 2012 từ nguồn vốn ODA của Tây Ban Nha, tiến hành điều khiển phối hợp các nút giao thông trên một số tuyến đường theo hình thức “làn sóng xanh”.

Tại Tp.Hồ Chí Minh, trung tâm điều khiển giao thông cũng đã được xây dựng. Hệ thống camera giám sát giao thông được lắp đặt. Thành phố đang thực hiện chương trình “Ứng dụng Khoa học công nghệ giảm ùn tắc giao thông giai đoạn 2013-2015 tầm nhìn đến 2020” nhằm “Nghiên cứu thử nghiệm và đưa vào ứng dụng các giải pháp công nghệ cho ITS nhằm nâng cao hiệu quả khai thác và phát triển hệ thông cơ sở hạ tầng giao thông hiện hữu trên địa bàn thành phố, góp phần giải quyết tình trạng ùn tắc giao thông”.

Trong lĩnh vực giao thông công cộng, việc ứng dụng ITS cũng bắt đầu được nghiên cứu và triển khai thực hiện thông qua hệ thống biển báo điện tử cung cấp thông tin về khoảng cách xe đến trạm dừng cho hành khách (được lắp đặt tại các trạm xe buýt). Sắp tới, tại Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh, một số tuyến đường sắt đô thị sẽ được đưa vào khai thác và dự kiến sẽ sử dụng hệ thống thẻ thanh toán thông minh theo tiêu chuẩn công nghệ của Nhật Bản để phục vụ công tác mua vé. Ngoài ra, Nhật Bản cũng đang giúp hai thành phố này thực hiện dự án “Cải tạo giao thông công cộng” thí điểm sử dụng thẻ thông minh cho xe buýt. (h3)

Việc sử dụng hệ thống radio VOV giao thông trong việc thu thập, cung cấp thông tin, điều tiết giao thông đã mang lại nhiều hiệu quả tích cực tại Thủ đô Hà Nội, Hầm đường bộ Hải Vân. Đây là một phương thức đơn giản nhưng hiệu quả, góp phần hạn chế ùn tắc giao thông trong đô thị và các khu vực trọng điểm.

 
 Hình 3. Hệ thống camera giám sát giao thông đô thị
 
 Hình 4. Trạm kiểm tra tải trọng xe

2.5. Về công tác kiểm tra tải trọng xe

Theo thống kê, từ năm 2013 đến nay, Bộ GTVT đã đầu tư 67 trạm cân lưu động trang bị cho các tỉnh trong cả nước. Đây là các trạm cân động tốc độ thấp có kết nối thông tin với Tổng cục Đường bộ Việt Nam để giám sát quá trình hoạt động. Dự kiến, sau năm 2014, Bộ GTVT sẽ đầu tư hệ thống cân tự động tốc độ cao trên mạng lưới quốc lộ trọng điểm, bảo đảm năng lực giám sát về lưu lượng, chủng loại và tải trọng xe ôtô đang vận hành ở tốc độ cao. Cùng với đó, Bộ GTVT sẽ xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu xe quá tải trên toàn quốc thông qua các Cục Quản lý đường bộ và các Sở GTVT bao gồm dữ liệu từ các trạm cân tốc độ cao và các trạm kiểm soát trọng tải xe lưu động triển khai trong giai đoạn 2014 - 2020. (h4)

2.6. Giám sát hành trình các phương tiện giao thông

Việc giám sát hành trình phương tiện cũng được chú trọng thực hiện. Đến nay, hầu hết các đơn vị kinh doanh vận tải (hàng hóa và hành khách) đều triển khai lắp đặt thiết bị giám sát hành trình (hộp đen ô tô) để nâng cao công tác quản lý phương tiện và đảm bảo an toàn. (h5)

Ngoài việc giám sát hành trình các phương tiện giao thông đường bộ, một số quy định, nghiên cứu về giám sát các phương tiện giao thông đường bộ, đường thủy cũng đã được thực hiện.    
Có thể thấy, Việt Nam đang trong giai đoạn đầu ứng dụng ITS. Các dự án ITS còn rời rạc, rải rác trong nhiều lĩnh vực, khía cạnh khác nhau của hệ thống giao thông vận tải. Tuy vậy, những dự án này đang góp phần mở ra một giai đoạn phát triển mới trong việc ứng dụng ITS tại Việt Nam và trong tương lai, Việt Nam còn rất nhiều việc phải làm để xây dựng thành công hệ thống ITS hoàn thiện.

Hình 5. Hệ thống giám sát hành trình xe

3. Một số vấn đề cần giải quyết trong quá trình triển khai

Trong quá trình triển khai ITS tại Việt Nam, nhiều vấn đề phát sinh ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng công việc, đòi hỏi phải tiếp túc nghiên cứu, khắc phục. Một số vấn đề điển hình như sau:
* Việt Nam tuy có một số nghiên cứu về ITS nhưng cơ bản các nghiên cứu này rời rạc, độc lập và thiếu sự phối hợp dẫn đến hiệu quả nghiên cứu chưa cao. Mặt khác chưa có một tổ chức thống nhất chuyên phụ trách nghiên cứu, ứng dụng và phát triển ITS tại Việt Nam. Điều này ảnh hưởng lớn đến định hướng, chiến lược và công tác điều hành quá trình nghiên cứu, triển khai ITS.

* Việc xây dựng hệ thống Tiêu chuẩn ITS đang trong giai đoạn đầu thực hiện. Số lượng tiêu chuẩn ITS đã có rất hạn chế và chủ yếu sử dụng các tiêu chuẩn nước ngoài, dẫn tới nguy cơ các hệ thống ITS khu vực và các lĩnh vực dich vụ ITS không thể kết nối, tích hợp. Công tác xây dựng các tiêu chuẩn còn chậm. Đặc biệt, Việt Nam chưa có kiến trúc tổng thể quốc gia về ITS.

* Các dự án ứng dụng ITS trên hệ thống đường cao tốc còn nhiều vấn đề phát sinh trong quá trình đưa vào hoạt động như: Thông tin thu thập, xử lý còn hạn chế và chỉ được lưu trữ nội bộ, chưa cung cấp đầy đủ cho người dùng (chưa có các biển báo điện tử, hệ thống thông tin cho người tham gia giao thông và chưa tương tác trực tiếp với các bên liên quan (cảnh sát, cứu hộ, cấp cứu). Hình ảnh thu thập chưa được sử dụng làm căn cứ để xử lý các vi phạm; Chưa xây dựng được bộ từ điển dữ liệu quản lý, điều hành và xử lý sự cố; Chất lượng hình ảnh hiển thị còn thấp, phụ thuộc nhiều vào điều kiện môi trường, hình ảnh còn bị nhiễu, hệ thống còn bị treo. Ban đêm hình ảnh thu thập không rõ nét, tốc độ đường truyền còn nhiều hạn chế.

*  Việc duy trì hoạt động của 3 trung tâm điều hành giao thông cao tốc tại ba khu vực Bắc, Trung, Nam còn một số khó khăn liên quan đến nguồn vốn duy trì hoạt động, bảo dưỡng, bảo trì hệ thống và khắc phục các hư hỏng phát sinh trong quá trình sử dụng. Ngoài ra, việc kết nối các trung tâm này với các trung tâm điều khiển giao thông đô thị cũng cần được xem xét và giải quyết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, phục vụ tốt hơn người sử dụng.

* Việt Nam đang thiếu hệ thống các quy định, quy trình kiểm định, đánh giá, nghiệm thu các thiết bị ITS. Điều này ảnh hưởng lớn đến công tác kiểm soát, quản lý, đánh giá chất lượng, hiệu quả của các thiết bị và các dự án ITS.

*  Nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu. Kinh nghiệm triển khai nhiều dịch vụ ITS còn hạn chế. Việc giải quyết, khắc phục các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện các dự án còn chậm. Hiệu quả khai thác, sử dụng các hệ thống đã có còn thấp.

* Các hình thức xã hội hóa đầu tư trong xây dựng và cung cấp dịch vụ ITS (BOT, PPP,...) còn hạn chế, dẫn tới tiến độ ứng dụng ITS chậm và thiếu cạnh tranh.
Đây là những vấn đề cơ bản ảnh hưởng đến quá trình ứng dụng ITS trong thời điểm hiện tại. Việc giải quyết các vấn đề này đang được Việt Nam nỗ lực thực hiện nhằm đẩy nhanh quá trình ứng dụng ITS. Trong quá trình ấy, việc tăng cường hợp tác quốc tế là rất quan trọng, đặc biệt với các quốc gia có hệ thống ITS phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Mỹ,….

4. Kết luận - Kiến nghị

Hệ thống giao thông vận tải tại Việt Nam đang có những bước phát triển mạnh mẽ về cơ sở hạ tầng và dịch vụ. Đặc biệt, hệ thống đường quốc lộ, đường cao tốc đang được tích cực nâng cấp, xây dựng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Trong quá trình này, việc xây dựng ITS luôn được chú trọng thực hiện. Dù đang trong giai đoạn đầu triển khai, việc xây dựng ITS đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy việc triển khai ITS còn sơ khai, rời rạc và phát sinh nhiều vấn đề nhưng tiềm năng và cơ hội ứng dụng ITS rất lớn, đòi hỏi Việt Nam phải nỗ lực và đẩy nhanh hơn nữa quá trình thực hiện. Để thực hiện điều này, bài báo có một số kiến nghị như sau:
* Đẩy mạnh nghiên cứu xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn cho hệ thống ITS, các quy trình thẩm định, nghiệm thu các dự án ITS:
- Tiêu chuẩn kỹ thuật Quốc gia về Kiến trúc ITS Việt Nam;
- Tiêu chuẩn kỹ thuật các dịch vụ ITS theo lộ trình áp dụng;
- Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế, môi trường và kỹ thuật của một hệ thống giao thông thông minh cụ thể;
- Xây dựng các quy trình nghiệm thu, thẩm tra đánh giá dự án liên quan đến ITS;
- Các phương pháp đánh giá, kiểm tra, nghiệm thu các hệ thống thiết bị ITS như hệ thống cân điện tử, thiết bị giám sát hành trình, hệ thống thu phí điện tử ETC, hệ thống thu thập thông tin giao thông, hệ thống điều khiển giao thông đô thị, công nghệ thông tin tầm ngắn chuyên dụng -  DSRC,…

* Đẩy mạnh hợp tác, triển khai công tác nghiên cứu về ITS, thực hiện các dự án và giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai ITS tại Việt Nam. Đặc biệt là xử lý, khắc phục các vấn đề trên hệ thống ITS các tuyến đường cao tốc để nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng.

*  Xây dựng các chính sách hỗ trợ về hợp tác, thử nghiệm và chuyển giao một số công nghệ, thiết bị ITS phù hợp với điều kiện Việt Nam.

*  Đào tạo nguồn nhân lực;
Phát triển ITS là hướng đi quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển Giao thông vận tải. Với những tiềm năng, cơ hội và lợi thế của mình, Việt Nam đang có những cơ sở thuận lợi để xây dựng thành công ITS góp phần nâng cao năng lực giao thông, giảm thiểu ùn tắc, hạn chế tai nạn giao thông và cải thiện môi trường... q

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1].Kiến trúc tổng thể hệ thống quản lý giao thông thông minh trên tuyến đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình, 2010.
[2].Hệ thống giao thông thông minh trên tuyến đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình, TS. Nguyễn Quang Tuấn, KS. La Văn Ngọ, KS. Bùi Tiến Mạnh, Viện KH&CN GTVT, 2014.
[3].Application of intelligent transport system (ITS) in Viet Nam, Nguyễn Văn Ích, Vụ Khoa học - Công nghệ, Bộ GTVT, 2013.
[4].Ứng dụng hệ thống giao thông thông minh nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát tải trọng xe tại Việt Nam, TS. Nguyễn Quang Tuấn, KS. Lê Nguyên Phong, ThS. Nguyễn Anh Tuấn, Viện KH&CN GTVT, 2014.
 [5].Hệ thống giao thông thông minh - PGS. TS Lê Hùng Lân,TS Nguyễn Quang Tuấn, TS Nguyễn Thanh Hải, NXB Giao thông vận tải, 2012.
 [6].ITS Lý luận, cấu thành, đánh giá – TS. Nguyễn Quang Tuấn. Viện KH&CN—GTVT, 2013

TS. Nguyễn Quang Tuấn, ThS. Nguyễn Anh Tuấn, KS. La Văn Ngọ Viện Khoa học và Công nghệ GTVT

Số 162 (8/2014)♦Tạp chí tự động hóa ngày nay